Đổi mới tư duy và chiến lược xuất khẩu
Xuất khẩu đã và đang là đòn bẩy quan trọng đưa Việt Nam tiến nhanh hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Để tăng trưởng bền vững và biến thách thức thành cơ hội, hoạt động xuất khẩu cần một cú chuyển mình thực sự. Đó là hoàn thiện chính sách, nâng cao năng lực DN, xanh hóa tổ chức sản xuất và minh bạch nguồn gốc xuất xứ.
Tăng trưởng mạnh nhờ năng lực thích ứng, tái cấu trúc hiệu quả
Thông tin từ Bộ Công Thương, trong 9 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 348,74 tỷ USD, tăng 16% so với cùng kỳ năm 2024. Trong 9 tháng qua, có 32 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 7 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 67,9%). Các thị trường xuất khẩu chính gồm: Mỹ, Trung Quốc, EU, ASEAN, Nhật Bản… Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, nhóm công nghiệp chế biến đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng xuất khẩu chung trong 9 tháng năm 2025, với kim ngạch đạt 297,2 tỷ USD, tăng 16,7% so với cùng kỳ năm 2024 và chiếm 85,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong đó, các sản phẩm chủ lực như: điện thoại, máy vi tính, linh kiện, dệt may và giày dép tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu, khẳng định vai trò trụ cột của công nghiệp chế biến trong thương mại quốc tế. Cùng với đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản ước đạt 33,2 tỷ USD, tăng tới 15,2% và chiếm 9,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Những con số này thể hiện mức tăng cao, phản ánh rõ nét sự phục hồi của các ngành công nghiệp chế biến, điện tử, dệt may, nông sản, giúp cán cân thương mại duy trì mức thặng dư lớn. Nổi bật phải kể đến xuất khẩu nhóm hàng nông sản với mặt hàng chủ lực ghi nhận tăng trưởng hai con số, góp phần củng cố vị thế nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, gồm: cà phê đạt 6,98 tỷ USD, tăng 61,4%; rau quả đạt 6,22 tỷ USD, tăng 10,3%; hạt điều đạt 3,75 tỷ USD, tăng 18,9%; thủy sản đạt 8,12 tỷ USD, tăng 12,3%…
Hay với xuất khẩu dệt may, trong 9 tháng năm 2025, ngành này cũng tăng trưởng ấn tượng trong bối cảnh thị trường có nhiều diễn biến bất lợi với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt gần 34,8 tỷ USD, tăng hơn 7,7% so cùng kỳ năm 2024. Đây là con số tạo nền tảng cho ngành dệt may tiến tới cán đích mục tiêu xuất khẩu 48 tỷ USD. Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam Vũ Đức Giang cho biết, hiện tại, các DN dệt may có đơn hàng đến tháng 11 và đang tiếp tục đàm phán cho những tháng tiếp theo. Bên cạnh việc đẩy mạnh xuất khẩu, nhanh chóng cán đích các mục tiêu đề ra cho năm 2025, DN cũng triển khai nhiều giải pháp nhằm tăng năng suất, nâng cao giá trị sản phẩm.
Đánh giá về “bức tranh” xuất khẩu, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) Trần Thanh Hải nhận định, 9 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu tăng trên 16%, vượt xa chỉ tiêu 12%. Kết quả này có được nhờ DN đẩy mạnh xuất khẩu sang Mỹ trong những tháng trước, dù cuối tháng 8 và tháng 9 ghi nhận sự chững lại ở một số mặt hàng. Tín hiệu đáng mừng là sức bật xuất khẩu từ đầu năm đến nay đang mở ra giai đoạn bứt phá mới, khi Việt Nam dần thoát khỏi quỹ đạo phục hồi ngắn hạn để bước vào chu kỳ tăng trưởng dựa trên giá trị xanh, công nghệ và năng lực cạnh tranh bền vững của DN nội địa.
Trong đó, các nhóm hàng công nghệ cao, linh kiện điện tử tiếp tục đóng vai trò dẫn dắt tăng trưởng, khẳng định vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá trị công nghệ toàn cầu. Đồng thời, nhiều DN đã chứng minh được việc tận dụng hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới để mở rộng và thâm nhập sâu hơn vào các thị trường khó tính như Liên minh châu Âu (EU), Mỹ, và các đối tác CPTPP.
Đa dạng hóa thị trường, tháo gỡ rào cản chính sách
Theo Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, bối cảnh thế giới đang thay đổi từng ngày, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chuỗi cung ứng toàn cầu có nguy cơ đứt gãy. Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 8% năm 2025 và duy trì mức hai con số những năm tiếp theo, xuất khẩu phải tiếp tục giữ vai trò động lực then chốt. Đề cập về những giải pháp cần được triển khai đồng bộ để đạt được mục tiêu Chính phủ đề ra, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết: bộ tiếp tục đẩy mạnh hoàn thiện hệ thống luật pháp để nội luật hóa các cam kết FTA. Kết nối DN trong nước với các Tập đoàn FDI, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Tăng cường thông tin thị trường, nhất là tại các thị trường mới và tiềm năng, đồng thời nâng cao năng lực phòng vệ thương mại và cảnh báo sớm các vụ kiện từ nước ngoài.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, để tăng trưởng bền vững cần đồng bộ cả phía cung, cầu và khâu tổ chức xuất khẩu, trong đó ngoại giao kinh tế đóng vai trò then chốt. Bộ Công Thương và Bộ Ngoại giao đã phối hợp thúc đẩy thỏa thuận thương mại, mở rộng sang các thị trường tiềm năng như Trung Đông, vùng Vịnh. Tuy nhiên, bài toán quy tắc xuất xứ, vẫn là rào cản lớn. Việt Nam kỳ vọng các cuộc đàm phán sắp tới với ASEAN – Canada có thể tạo cơ chế cộng gộp linh hoạt hơn, giúp DN tận dụng nguồn nguyên liệu đa dạng. Riêng với thị trường Mỹ, vấn đề trung chuyển hàng hóa chưa có định nghĩa rõ ràng, trong khi vẫn tồn tại nguy cơ áp thuế đối ứng 20 – 40%. Điều này đòi hỏi các bộ, ngành phải sớm có hướng dẫn cụ thể để DN chủ động kế hoạch sản xuất, tránh rơi vào thế bị động.
Nói về thay đổi chiến lược xuất khẩu, TS Võ Trí Thành – Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển thương hiệu và cạnh tranh nhìn nhận: “Tăng trưởng xuất khẩu là rất ấn tượng, nhưng điều quan trọng hơn là cách Việt Nam chuyển từ tăng trưởng theo lượng sang tăng trưởng theo chất. Năng lực đổi mới, xanh hóa sản xuất và xây dựng thương hiệu quốc gia mới chính là yếu tố quyết định vị thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu những năm tới”. TS Võ Trí Thành nhấn mạnh, trong giai đoạn này, chiến lược xuất khẩu của Việt Nam cần chuyển đổi mạnh mẽ từ tư duy “mở rộng quy mô” sang “nâng cấp chất lượng”. Sự chuyển mình này đòi hỏi DN phải chủ động đầu tư công nghệ sạch, cải thiện tiêu chuẩn sản xuất, ứng dụng chuyển đổi số trong quản lý chuỗi cung ứng và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.
Lưu ý về chính sách CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon), TS Nguyễn Quốc Việt – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế và Chính sách cho rằng, đây là một thách thức không nhỏ, nhưng nếu Việt Nam thích ứng sớm bằng cách phát triển công nghiệp xanh, nâng chuẩn môi trường và áp dụng hệ thống đo lường phát thải minh bạch, đây sẽ là cơ hội vàng để DN Việt nâng tầm cạnh tranh và tiếp cận sâu hơn chuỗi giá trị châu Âu. Song song với rào cản xanh và quy tắc mới, các biện pháp thuế đối ứng, chống bán phá giá từ nhiều thị trường lớn như Mỹ, EU, Ấn Độ cũng đang gia tăng. Một số mặt hàng như thép, sắt, gỗ và pin năng lượng mặt trời đã bị điều tra hoặc áp thuế cao hơn do nghi ngờ chuyển tải xuất xứ. Những động thái này đòi hỏi DN phải nâng cao năng lực tuân thủ quốc tế, hành xử minh bạch về nguồn gốc, đồng thời đẩy mạnh hợp tác vùng và liên kết ngành để tăng năng lực cạnh tranh tổng thể.
Ánh Ngọc
Nguồn Kinh Tế Đô Thị

