Ghẹ xanh Kiên Giang: Minh chứng cho cam kết nghề cá bền vững của Việt Nam
Tại Việt Nam, mặc dù ngành ghẹ (bao gồm ghẹ đỏ và ghẹ xanh) còn tương đối nhỏ so với nhiều ngành thủy sản khác, nhưng giá trị từ xuất khẩu ghẹ lại là ngành có doanh thu lớn trong số các sản phẩm hải sản đánh bắt tự nhiên, mang về trung bình hơn 81 triệu USD mỗi năm và con số này đang ngày càng tăng. Ghẹ đỏ được khai thác ở nhiều nơi, nhưng ghẹ xanh chỉ có thể khai thác chủ yếu ở tỉnh Kiên Giang, với sản lượng khai thác hàng năm dao động trong khoảng 6.000-8.000 tấn/năm. Ngành thủy sản này liên quan đến khoảng 20.000 ngư dân từ các vùng ven biển trong tỉnh.
Phát triển bền vững nghề khai thác ghẹ xanh
Chương trình Cải thiện nghề khai thác ghẹ xanh Kiên Giang do Uỷ ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang và Câu lạc bộ ghẹ thuộc Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thuỷ sản Việt Nam (VASEP) thực hiện. Đơn vị phối hợp với WWF Việt Nam và đơn vị tư vấn gồm Viện Nghiên cứu Hải sản (RIMF) và Viện Hải dương học Nha Trang (IO). Câu lạc bộ ghẹ VASEP gồm các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu ghẹ vào thị trường Mỹ. Đây là thị trường nhập khẩu có yêu cần khắt khe đối với sản phẩm nhập vào, trong đó, nguồn nguyên liệu cần chứng minh được khai thác từ nghề cá bền vững. Tiêu chuẩn để đánh giá nghề cá bền vững là chứng nhận của Hội đồng Quản lý Biển (MSC – Marine Stewardship Council).
Năm 2009, Câu lạc bộ (CLB) ghẹ VASEP xúc tiến việc đánh giá nghề khai thác ghẹ xanh theo tiêu chuẩn MSC nhằm giảm thiểu các rào cản thương mại đối với ghẹ xanh xuất khẩu sang Mỹ. CLB ghẹ VASEP đã thuê chuyên gia tư vấn độc lập từ Poseidon Ltd của Australia để đánh giá nghề ghẹ theo tiêu chuẩn MSC.
Giai đoạn từ năm 2009 – 2011, nghề khai thác ghẹ Kiên Giang được đánh giá sơ bộ theo chuẩn MSC, kết quả ban đầu cho thấy thiếu dữ liệu về nguồn lợi, quản lý và sinh thái.
Xuất phát từng những hạn chế nêu trên, UBND tỉnh Kiên Giang đã cùng với CLB ghẹ VASEP phối hợp với WWF Việt Nam và các viện nghiên cứu để thực hiện Chương trình cải thiện (FIP) nghề khai thác ghẹ, hướng tới đạt tiêu chuẩn chuẩn MSC trong vòng 05 năm. Bản kế hoạch hành động FIP ghẹ xanh đã được xây dựng với các hoạt động cụ thể, đã được thống nhất với các bên liên quan vào năm 2012. Biên bản ghi nhớ về việc thực hiện FIP ghẹ xanh đã được ký 04 bên, giữa UBND tỉnh Kiên Giang, CLB ghẹ VASEP, WWF Việt Nam và Viện Nghiên cứu Hải sản. Chương trình FIP ghẹ xanh Kiên Giang bắt đầu được thực hiện từ tháng 11/2012, do WWF Việt Nam làm đầu mối, điều phối chung các hoạt động của dự án. Toàn bộ các hoạt động của chương trình FIP và các kết quả đạt được theo định kỳ sẽ được cập nhật và theo dõi trên trang web https://fisheryprogress.org/. Những thay đổi trong kế hoạch hoạt động hàng năm ở năm tiếp theo được điều chỉnh dựa trên kết quả đã đạt được của năm trước đó.
Trong quá trình thực hiện chương trình FIP, nghề khai thác ghẹ xanh Kiên Giang đã có những thay đổi tích cực. Từ điểm xuất phát là tình trạng thiếu thông tin phục vụ quản lý ở hầu hết các lĩnh vực, như nguồn lợi, hệ sinh thái và quản lý nghề cá, thì kết quả đánh giá hàng năm đã cập nhật thông tin với sự cải thiện đáng kể. Kết quả là đến năm 2016, khả năng đạt chứng nhận MSC sau 05 năm được xác định là rất khả thi khi chỉ còn 01 chỉ số cần cải thiện.
Giai đoạn từ năm 2017 – 2019, do tác động của môi trường khiến cho sản lượng ghẹ giảm mạnh (năm 2018 chỉ còn 2.072 tấn, giảm 73% so với 2013). Chương trình FIP phải tạm dừng từ 2020.
Năm 2023, VASEP phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Hải sản đã xúc tiến khôi phục lại Chương trình FIP cho ghẹ xanh để hỗ trợ giảm thiểu các rào cản thương mại cho xuất khẩu sản phẩm ghẹ xanh vào Mỹ.
Với sự nỗ lực của VASEP và các đơn vị tư vấn, hỗ trợ, chương trình FIP cho ghẹ xanh Kiên Giang đã hoạt động trở lại từ năm 2024, chính thức hiển thị trạng thái hoạt động trên website https://fisheryprogress.org/ từ tháng 9/2024. Các hoạt động của chương trình FIP ghẹ xanh và tiến độ thực hiện các hoạt động được thực hiện dựa trên bản kế hoạch hoạt động. Kết quả về sự cải thiện của nghề khai thác ghẹ xanh được theo dõi trực tuyến trên trang này và được cập nhật trạng thái định kỳ hàng năm.
Sản lượng khai thác ghẹ xanh năm 2023 đã phục hồi tương đương với sản lượng khai thác trong giai đoạn 2013-2016.
Các đối tượng khai thác không chủ ý của nghề ghẹ
Trong sản lượng khai thác của nghề ghẹ xanh, kết quả phân tích dữ liệu quan sát trên tàu khai thác giai đoạn 2013-2018 do dự án FIP thực hiện đã thống kê được tổng số 288 loài thuộc 108 họ hải sản. Như vậy, ngoài đối tượng khai thác chính thì sản lượng của nghề ghẹ có khoảng 287 loài khai thác không chủ ý. Trong đó, nghề lưới rê đánh bắt được 60,4% tổng số loài của nghề ghẹ; nghề bẫy lú đánh bắt được 74,1% và nghề bẫy rập chỉ đánh bắt được 27,8% tổng số loài đã thống kê được trong tổng thể nghề ghẹ.
Trong các loài hải sản khai thác không chủ ý của nghề ghẹ, có ghi nhận một số loài thuộc nhóm các loài có nguy cơ bị tuyệt chủng, bị đe doạ và được bảo vệ (ETP) thuộc nhóm rùa biển, cá nhám và cá đuối.
Tuy nhiên, các loài ETP mặt dù có ghi nhận bắt gặp trong sản lượng khai thác của nghề ghẹ nhưng tần suất bắt gặp của các nhóm thấp. Kết quả phân tích 23.480 bản ghi sản lượng khai thác từ 3.270 sổ nhật ký khai thác của nghề ghẹ xanh và 365 mẻ khai thác từ 74 chuyến quan sát viên trên tàu khai thác ghẹ xanh, không ghi nhận sự xuất hiện của các loài thú biển.
Như vậy, có thể thấy nghề khai thác ghẹ xanh chưa ghi nhận có sự tác động đến các loài thú biển ở vùng biển Kiên Giang.
Nghề khai thác ghẹ xanh ở Kiên Giang sử dụng 03 loại ngư cụ khai thác là lưới rê đáy, bẫy rập và bẫy lú.
Công tác quản lý nghề khai thác ghẹ xanh ở Kiên Giang trong những năm qua được thực hiện dựa trên bộ chỉ số đánh giá nghề cá theo chuẩn MSC của Hội đồng quản lý biển. Nghề khai thác ghẹ xanh có sự thay đổi từ nghề cá thiếu thông tin phục vụ công tác quản lý đã có sự cải thiện đáng kể từ khi thực hiện FIP. Đây là một trong những nghề cá đi đầu trong công tác quản lý dựa trên các quy chuẩn về thông tin theo MSC ở Việt Nam.
Ngày 26/8/2025, Cục Quản lý Đại dương và Khí quyển (NOAA), Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã gửi công thư tới Cục Thuỷ sản và Kiểm ngư (Bộ Nông nghiệp và Môi trường Việt Nam) từ chối công nhận tương đương đối với 12 nghề cá của Việt Nam, trong đó có nghề khai thác ghẹ/cua bơi (mã số 2988), gồm các loại ngư cụ: lưới rê và lưới cuốn (không xác định), lưới kéo đơn và/hoặc lưới kéo đôi (tầng đáy), lưới bẫy/lưới cố định (tầng đáy).
Như vậy, với việc từ chối công nhận tương đương của Mỹ đối với 12 nghề cá của Việt Nam, trong đó có nghề ghẹ, việc xuất khẩu ghẹ xanh sang thị trường Mỹ sẽ bị ảnh hưởng từ 01/01/2026.
Nghề khai thác ghẹ xanh Kiên Giang là nghề cá quy mô nhỏ, sử dụng ngư cụ là lưới rê tầng đáy, bẫy rập và bẫy lú, với kích thước tàu khai thác chủ yếu thuộc nhóm <12m, hoạt động khai thác ven bờ. Kết quả phân tích lại dữ liệu nhật ký khai thác và dữ liệu quan sát viên trên tàu khai thác không ghi nhận thông tin về thú biển tương tác với ngư cụ khai thác. Do đó, có thể khẳng định nghề khai thác ghẹ xanh không ảnh hưởng tới thú biển.
Đánh giá chung
Nghề khai thác ghẹ xanh Kiên Giang trong nhiều năm qua đã và đang thực hiện chương trình cải thiện nghề cá theo tiêu chuẩn MSC của Hội đồng quản lý biển. Các giải pháp bảo vệ nguồn lợi, giảm thiểu khai thác không chủ ý đối với các loài khai thác không chủ ý được đề cập trong kế hoạch quản lý của chương trình FIP. Thông tin về dự án có thể truy xuất trực tuyến qua website https://fisheryprogress.org/. Do đó, nghề khai thác ghẹ xanh Kiên Giang có đầy đủ điều kiện cần và đủ để xem xét công nhận tương đương với nghề cá của Mỹ.
Nguyễn Hà
Nguồn vasep